Người Anh có từ "tea", phát âm bản sao của người vùng
Hạ Môn. Cách viết chữ ''trà'' Nhật Bản cũng tương tự chữ ''trà'' Trung
Quốc, phát âm chỉ khác đôi chút.
Trà trở thành thứ thiết yếu trong
đời sống thường nhật của người Trung Quốc từ xa xưa. Mùa hè, hương trà
như xua tan không khí nóng nực và mang lại cảm giác mát mẻ, sảng khoái.
Mùa đông, tách trà ấm áp giúp con người gần nhau hơn. Người Trung Quốc
có câu nói thế này: "Thà ba ngày thiếu muối còn hơn một ngày vắng trà''.
Trà Trung Quốc có rất nhiều loại, gắn liền với các truyền thuyết, câu
chuyện kể.
Dũng Khê Hỏa Thanh
Đó là loại trà đặc sản của huyện Kinh tỉnh An Huy. Khởi nguyên của nó bắt đầu từ thời Minh. Lai lịch Dũng Khê Hỏa Thanh là
truyền thuyết: bấy giờ ở vùng Dũng Khê có một tú tài tên gọi Lưu Kim,
hiệu là La Hán tiên sinh. Nhân tiết trời xuân đi tới dãy núi Dũng Khê
phát hiện ra một loại cây ''Kim Ngân trà''. Loại cây này lớn lên hình
dáng rất kỳ lạ, nửa phiến lá màu trắng, nửa còn lại màu vàng. Người dân
quen gọi là ''Bạch trà''. La Hán tiên sinh nghe kể cảm thấy rất hứng
thú, bèn lấy về mầm cây ''Kim Ngân trà'' đem về nhà, vò rồi sao trên
lửa, chế thành một loại lá trà, bề ngoài ưu tú thanh nhã, sắc xanh như
châu ngọc, phủ lớp lông tơ trắng mịn, lại có mùi thơm như hoa, vị ngọt
tựa cam đường, và đặt tên là Hỏa Thanh. Dũng Khê Hỏa Thanh sau này trở thành trà tiến vua, nổi tiếng toàn quốc, phát triển thịnh trị nhất vào thời nhà Thanh (1851-1861).
Tây Sơn trà
Tây Sơn trà xuất phát từ
vùng Tây Sơn huyện Quế Bình (Quảng Tây). Xa xưa trên núi Tây Sơn có
phiến đá bàn cờ, xung quanh mọc rất nhiều cây trà. Ngày kia, hai vị thần
tiên ở trời cao bay xuống núi, chơi cờ trên đá. Họ ngắt vài lá trà bên
cạnh, nấu với nước suối Khổng Tuyền rồi uống. Về sau, nước suối có vị
ngọt như sữa, pha với cây trà vùng núi Tây Sơn thì hương vị không thể
nào quên.
Thiết Quan Âm
Loại trà này là sản phẩm riêng của vùng An Khê (Phúc
Kiến). Thời vua Càn Long nhà Thanh, ở thôn Tùng Lâm có người tên Ngụy Ẩm
rất tin theo Phật. Mỗi buổi sáng sớm, thường pha một cốc trà thanh tịnh
và cúng trước tượng Phật Quan Âm Đại Sĩ. Một hôm, anh lên núi kiếm củi,
tìm ra một cây trà, trong ánh bình minh lóe rạng, lá trà như phát tỏa
hào quang. Ngụy Ẩm đào cây mang về nhà, chăm sóc chu đáo. Lá trà sau này
chế thành Ô Long trà, hương vị đặc biệt. Lá trà này sắc xanh như sắt,
vị thanh, hương giống cây cỏ thơm nên gọi là ''Thiết Quan Âm''.
Hàng Châu Bích La Xuân
Xuất xứ danh trà ở vùng Thái Hồ
Động Đình sơn huyện Ngô, Giang Tô. Cái tên Bích La Xuân có từ rất lâu
đời. Theo ghi chép ''Thanh Gia lục'', có truyền thuyết rằng: ''Núi đông
Động Đình có đỉnh Bích La, trên vách đá dựng đứng có vài cây trà mọc
hoang dã. Mỗi năm, người dân trong vùng lại tới hái lá trà về uống. Bấy
giờ, khi tiết hái trà đến gần, mọi người lên núi, thấy cây trà cành lá
mọc xum xuê, ai cũng thi nhau lấy, giỏ tre đựng không đủ, bèn giắt cả
vào ngực áo. Lá trà ấp vào ngực, gặp hơi nóng tỏa ra từ cơ thể, phát ra
mùi hương kỳ lạ. Mọi người nhất loạt thốt lên: Nhân hương''. Từ đó về
sau, mỗi lần hái trà, mọi người không dùng giỏ tre mà đều ôm vào ngực.
Loại trà mang tên ''Nhân hương'' - ý là chỉ mùi thơm lá trà phát ra từ
cơ thể con người. Vùng núi có người tên là Chu Chính Nguyên rất thông
thạo cách chế trà ''Nhân hương''. Nhân Hoàng đế Khang Hy du ngoạn Thái
Hồ, người dân dâng trà ''Nhân hương'', vua mê mẩn với tách trà, cảm thấy
tên gọi không ưu nhã, liền đổi thành ''Bích La xuân''.
Huệ Minh Trà
Vùng núi Cảnh Ninh, Âu Giang tỉnh
Chiết Giang là quê hương trà Huệ Minh, gắn liền với tên gọi một ngôi
chùa sát chân núi. Tương truyền thời nhà Đường, có người tên là Lôi Thái
Tổ đem bốn người con từ Quảng Đông lánh nạn đến vùng Giang Tây, rồi lại
từ Giang Tây lưu lạc tới Chiết Giang. Trên đường đi gặp một vị hòa
thượng, trò chuyện rất tâm đồng ý hợp. Cha con họ Lôi đến Cảnh Ninh,
khai phá đất hoang, tìm cơ kiếm sống. Quan huyện sinh lòng tham, tìm
cách chiếm đất đai của năm cha con, đẩy họ khỏi vùng. Cơ may họ Lôi đến
trấn Nga Khê (Cảnh Ninh) lại gặp hòa thượng cũ. Đó chính là vị sư tổ
chùa Huệ Minh. Xung quanh chùa đất đai rộng lớn, cây cối um tùm, vắng
bóng người ở. Hòa thượng gọi cha con Lôi Thái Tổ đến chùa Huệ Minh, khai
hoang trồng trà. Tên Huệ Minh trà có từ ấy.
Cửu khúc hồng mai
Cửu khúc hồng mai gọi tắt là Cửu
khúc hồng còn có tên là Cửu khúc Ô long, xuất xứ ở bờ sông Tiền Đường
(Hàng Châu). Tên gọi rất thi vị này bắt nguồn từ một truyền thuyết cũng
là phản ánh sự đặc sắc của loại trà. Ở vùng Cửu khúc hồng mai có đôi vợ
chồng già vẫn chưa sinh con, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. May sao một
năm thành tâm nguyện ý sinh được cậu con trai, vợ chồng mừng hơn bắt
được châu ngọc và gọi con là A Long. A Long lớn lên thông minh đẹp đẽ,
lại rất thích chơi bên bờ sông. Một hôm, A Long đang nghịch nước, thấy
hai con tôm tranh nhau viên ngọc nhỏ, cậu cảm thấy rất hiếu kỳ, bèn lấy
viên ngọc sung sướng chạy về nhà. Trên đường đi không cẩn thận, nuốt
ngọc vào bụng. Về đến nơi, toàn thân ngứa ngáy, gọi mẹ cho đi tắm. A
Long vừa vào chậu nước, hình dáng biến thành rồng nhỏ Ô Long. Hôm đó
trời mưa gió, sấm chớp bão bùng, Ô Long nhe nanh múa vuốt, bay ra khỏi
nhà, hướng về phía núi. Vợ chồng già thấy con biến hình, vừa thất vọng,
vừa đau đớn, khóc lóc xót xa. Ô Long lưu luyến song thân, nửa muốn đi,
nửa muốn ở, chốc chốc ngoái đầu lại. Nơi Ô Long dừng chân, biến thành
suối Cửu khúc. Ô Long đi rồi, hai vợ chồng già càng thêm thương nhớ. Về
sau mỗi tiết Thanh minh, Ô Long lại về thăm cha mẹ một lần. Truyền
thuyết về suối Cửu khúc cũng vừa phù hợp với cây trà trên núi Hàng Châu.
Hình thù lá trà giống như rồng nhỏ, nên mọi người gọi là ''Cửu khúc Ô
long''. Lá trà sắc vàng lấp lánh, khi pha nước, màu sắc tươi hồng nên
còn gọi là ''Cửu khúc hồng mai''.
Ô Long trà
Từ rất lâu rồi, ở vùng núi sâu An
Khê Phúc Kiến, có người thợ săn gọi là Hồ Lương. Một ngày trở về nhà sau
khi săn thú, mặt trời lên cao, thời tiết nóng nực, Hồ Lương sợ thịt ôi
hỏng, bèn tiện tay ngắt vài lá cây ven đường che đậy. Sau lại thấy nhà
mình có mùi hương thơm ngát. Tìm quanh quẩn trong ngoài, mới biết hương
thơm tỏa ra từ lá cây đã ngắt. Anh dùng lá cây ngâm vào nước, uống thấy
tinh thần muôn phần sảng khoái. Hồ Lương không quản đường xa, tìm tới
nơi, đào cây mang về trồng. Nhưng mùi vị pha không giống như trước. Anh
suy nghĩ mông lung, rồi hiểu rằng, lá trà phải phơi nắng, gia công rồi
mới có hương thơm. ''Hồ Lương'' phát âm ngôn ngữ địa phương gần giống
''Ô Long''. Người dân trong vùng ghi nhớ công lao Hồ Lương liền gọi loại
trà này là ''Ô Long trà''.
Quân Sơn Ngân Châm
Có vị vua Minh Tông sau thời Ngũ
Đại, một hôm thiết triều, thái giám dâng chén trà. Khi đổ nước pha trà,
thấy bóng hạc trắng soi đáy cốc, ngước nhìn lên không trung, thấy một
con hạc trắng quay đầu về phía vua, gật ba cái rồi bay đi. Chén trà đột
nhiên dâng lên làn hương cùng bọt nhỏ từ dưới đáy, lăn tăn bóng nước, và
chầm chầm lan tỏa không dứt, nhác trông giống bông hoa tuyết. Lại hợp
với lời tâu thái giám, loại trà này pha bằng chiếc lông hạc. Vua cảm
động và sung sướng, hạc trắng cúi đầu chào ba lần, ý như cung chúc vua
vạn tuổi. Vua Minh Tông sau đặt tên là trà Quân Sơn Ngân Châm. Loại trà
này xưa chỉ để tiến vua...
Ở Trung
Quốc thời Tây Chu, trà bắt đầu được xem như một vật phẩm tiến vua. Cuối
thời Tây Hán, trà là thứ hàng hóa chủ yếu. Đến thời nhà Đường, trà trở
nên phổ biến với mọi người dân. Vào thế kỷ thứ 6, một vị hòa thượng đã
mang trà đến Nhật Bản, thế kỷ thứ 16, một người truyền giáo Bồ Đào Nha
đã giới thiệu trà Trung Quốc ở Âu châu. Trà - uống trà là nét sinh hoạt
văn hóa không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của người dân
Trung Quốc.
Địa chỉ mua hàng tin cậy:
Công ty cổ phần Sức khỏe Việt Vinacom
VP: Số 134 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội
ĐT: 04. 66705470
Hotline: 0985 787 063 – 0982 22 11 86
Email: sieuthitra@gmail.com
Website: http://tracaocap.com
Tham khảo các sản phẩm khác:
Trà oolong, trà thiết quan âm, Trà tết Bánh trung thu, Quà tết , Rượu ngoại, Rượu vang,