Người Mỹ rất thích đồ uống lạnh, đặc
biệt là những loại trà ướp trong cốc nước nóng, sau đó vớt bỏ lá trà
đi, chờ cho cốc trà nguội, bỏ thêm chút đường, vài viên đá lạnh hoặc
chút nước ép táo, như vậy đã có một cốc trà lạnh, một loại nước giải
khát rất được người Mỹ ưa chuộng.
Đầu thế kỷ thứ 18, trà Trung Quốc
bắt đầu thâm nhập vào thị trường Luân Đôn. Các loại đồ uống gải khát từ
trà tại nước Anh bắt đầu lưu hành trở lại.Tại Ấn Độ, năm 1780, lần đầu
tiên đã nhập vào loại trà Trung Quốc, tại Srilanca, năm 1841 mới bắt
đầu trồng cây trà của Trung Quốc. Năm 1893, nước Nga đã mời một chuyên
gia về kỹ thuật trồng trà Trung Quốc tới để phổ biến, lá trà đã có một
sự phát triển nhanh chóng tới nhiều quốc gia trên thế giới.

Từ trước tới nay, thói quen uống trà
đã lưu hành trên 100 quốc gia và các vùng đất khác nhau trên thế giới.
Sản phẩm từ lá trà có rất nhiều, dựa trên đặc tính của từng loại trà,
có thể chia ra làm năm loại: trà xanh, hồng trà, trà Ô Long, hoa trà,
và cuối cùng là trà ép.
Trong các loại trà trên lại được
chia ra làm các tiểu loại trà nhỏ hơn rất nổi tiếng.
Trà xanh có các
loại như: trà Long Tỉnh của Tây Hồ Hàng Châu, trà Bích La Xuân của Thái
Hồ Giang Tô, trà Hoàng Sơn Mao Đài của Hoàng Sơn tỉnh An Huy, trà Lục
An Qua Phiến của Lục An tỉnh An Huy, trà Tín Dương Mao Tiêm của Tín
Dương tỉnh Hồ Nam. Hồng trà có các loại trà nổi tiếng như trà Chấn Hồng
của Vân Nam.
Trà Ô Long bao gồm: Trà Di Nham của Phúc Kiến, trà Thiết
Quan Âm của Phúc Kiến, trà Ô Long của Đài Loan.
Trà hoa gồm: Trà ướp hoa
nhài của Phúc Châu, trà hoa nhài của Hàng Châu và trà hoa nhài của Tô
Châu.
Trà ép bao gồm: trà Phổ Nhĩ của huyện Tư mão
tỉnh Vân Nam và Tây Song Bản Nạp, Lục bảo trà của Quảng Tây.
Trong các loại trà trên thì trà Long
Tỉnh của Tây Hồ là nổi tiếng nhất, nó có lịch sử lên tới hàng nghìn
năm, trà Long Tỉnh có bốn đặc điểm, đó là sắc, hương , vị và hình dáng
lá trà.

Cách thu hoạch và chế biến lá trà
Long Tỉnh không giống nhau. Mỗi năm, vào tháng 3 thì bắt đầu thu hoạch,
và thu hoạch liên tục cho tới tháng 10 thì dừng lại. Trong khoảng thời
gian này, có thể thu hoạch tổng cộng là mười sáu lần, và phân ra làm
mười sáu cấp khác nhau, là Xuân trà, Hạ trà và Thu trà. Trong đó thì
Xuân trà là tốt nhất. Thế nhưng trong Xuân trà, thì Xuân tiền trà- loại
trà được thu hoạch vào trước tiết thanh minh là đắt nhất, là loại trà
ngon được xếp vào đẳng cấp bậc nhất của Long Tỉnh trà.
Việc chế biến trà Long Tỉnh phân ra
làm hai phần, phần thứ nhất là bỏ lá trà vào trong một chiếc nồi, đun ở
nhiệt độ 80 độ C trong vòng từ 15 tới 20 phút. Phần thứ hai là bỏ tất
cả lá trà đã được sao qua đem bỏ vào vào trong một chiếc chảo lớn, đảo
liên tục trong vòng từ 30 tới 40 phút ở 40 độ C. Trong thời gian chế
biến trà, toàn bộ phải làm bằng tay, không được sử dụng bất cứ loại vật
dụng nào để thay thế. Một kilô gam trà Long Tỉnh được chế biến từ bốn
kg lá trà tươi, qua tám tiếng gia công, chính vì vậy mà trà Long Tỉnh
được tôn vinh là loại trà báu vật hàng thủ công.
Trà Long Tỉnh có hàm lượng chất dinh
dưỡng rất cao, nó bao gồm VitaminC, Vitamin E và hơn 24 loại nguyên tố
khác. Khi pha trà Long Tỉnh, nhiệt độ của nước không được cao quá,
thông thường từ khoảng 80 tới 90 độ C. Nếu nhiệt độ nước cao quá sẽ
khiến cho các thành phần vitamin trong lá trà mất đi. Người ta uống trà
Long Tỉnh thường uống trong cốc thuỷ tinh, tốt nhất là chỉ uống ba cốc,
cốc thứ nhất để ngửi, cốc hứ hai để uống và cốc thứ ba để nhìn.

“Khách đến kính trà” là phong tục lễ
nghĩa hiếu khách trọng tình của người Trung Hoa. Ngày nay, người Trung
Quốc sử dụng trà để mời bạn bè biểu thị niềm vui. “Khách đến kính trà”
cũng đã trở thành một thói quen của dân tộc Trung Hoa cho dù là ở nơi
thành thị hay ở thôn quê.
Người Trung Quốc ở phương nam có
thói quen dùng “nguyên bảo trà” để mời khách, trong cốc trà còn bỏ thêm
hai miếng quýt để biểu thị cát tường, may mắn. Ở Mông Cổ, người ta hay
dùng trà sữa hoặc trà bơ để tiếp đãi khách. Còn có nơi, nam nữ đính hôn
lấy trà làm lễ, phía nhà gái nhận lễ từ nhà trai gọi là “hạ trà” hoặc
“thụ trà”, đem lễ nghĩa hôn nhân gọi thành “tam trà chi lễ”, chính là
“hạ trà” trong lễ đính hôn, “định trà” trong lễ kết hôn và “hợp trà”
trong lúc động phòng.
Sieuthitra - sưu tầm